Các nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước và gây ra các bệnh liên quan đến nước là gì? Một khi đã nắm được nguyên nhân thì việc xử lý và phòng tránh các bệnh liên quan là có thể. Ô nhiễm nước là chủ yếu là do ba yếu tố sau:
– Chất cặn bẩn hoặc chất rắn lơ: Đây là những chất rắn không hòa tan như bụi, cát, đất sét, gỉ sắt,… Chúng lơ lửng trong nước làm cho nước có màu. Tổng chất rắn lơ lửng hoặc TSS là thuật ngữ kỹ thuật được sử dụng để xác định mật độ hiện diện của các chất lơ lửng này trong nước. Độ đục là một thuật ngữ kỹ thuật được sử dụng để đo lượng rắn lơ lửng trong nước.
– Vi trùng hoặc vi sinh vật: Vi khuẩn, virus, ký sinh trùng, trứng (nang) và các tác nhân gây bệnh khác được gọi chung là các vi sinh vật. Bể chứa nước đôi khi có thể là một nơi sinh sản lý tưởng cho các vi sinh vật này. Trong thử nghiệm thông thường trên các vi sinh vật, chỉ có một nhóm vi khuẩn là Coliform hoặc e-coli được thử nghiệm bởi vì nó là loài phổ biến nhất, và là vi sinh vật đầu tiên lây nhiễm trong nước.
– Chất rắn hòa tan: Đây là những muối và chất hòa tan trong nước và chúng không thể được loại bỏ bằng các phương pháp lọc đơn giản. Tổng số chất rắn hòa tan hoặc TDS là thuật ngữ kỹ thuật được sử dụng để diễn tả lượng vật chất hòa tan trong nước và thường được biểu diễn bằng đơn vị “ppm” viết tắt cho “phần triệu” hoặc mg / L. TDS trong nước có thể được tính toán thông qua độ dẫn điện của nước.
Các chất ô nhiễm độc hại trong nước:
Asen
Asen hay còn gọi là thạch tín xuất hiện tự nhiên trong đá, đất, …khi nước chảy qua các lớp đất đá này sẽ bị nhiễm Asen. Asen là một chất không mùi, không vị, vì vậy bằng giác quan thông thường không thể nào phát hiện nước bị nhiễm Asen.
Tiếp xúc với Asen có thể gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng cho sức khỏe. Asen tích lũy trong cơ thể theo thời gian mà không được loại bỏ, nếu liên tục sử dụng nước uống có nhiễm Asen sau một vài năm lượng Asen tích tụ sẽ càng nhiều và càng nguy hiểm đến sức khỏe. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo rằng mức độ tối đa của Asen trong nước uống không được vượt quá 0,01 mg/L, và tốt nhất là không có sự tồn tại của Asen trong nước.
Thủy ngân
Thủy ngân là một kim loại nặng và có độ tính cao. Mức độ chất gây ô nhiễm tối đa cho thủy ngân theo WHO và EPA (Cơ quan Bảo vệ môi trường của Mỹ) và các tiêu chuẩn nổi tiếng khác là tính theo phần tỷ hoặc ppb, tức là rất nhỏ, vì đây là một kim loại rất độc. Thủy ngân gây tổn thương thận và nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng khác tới sức khỏe.
Chì
Giống như thủy ngân, chì cũng là một kim loại nặng, và cũng là một chất rất có hại cho sức khỏe. Một số các đường ống cũ và phụ kiện có chứa chì cũng là nguyên nhân chính gây nhiễm chì trong nước.
Crom ( Hóa trị 6 )
Crom là một vi lượng cần thiết cho cơ thể dưới dạng Crom hóa trị 3. Còn Crom tồn tại ở dạng hóa trị 6 hay còn gọi là Hexavalent Chromium tồn tại trong nước ngầm do các ngành công nghiệp hóa chất sử dụng Crom và xả nước thải không qua quá trình xử lý triệt để. Crom hóa trị 6 là một chất độc hại và đặc biệt cần lưu ý đối với các hộ dân sử dụng nước giếng. EPA đã thiết lập mức độ cho phép tối đa của Crom hóa trị 6 là 0,1 mg/L.
Nitrat
Nitrat thông thường tồn tại dưới dạng nitrit và Amoniac, có mặt trong nguồn nước do là tàn dư của phân bón, quá trình hoạt động nông nghiệp và chất thải động vật ngấm vào các nguồn nước ngầm. Nitrat trong nước đặc biệt nguy hiểm cho trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi, gây ra các hội chứng “trẻ màu xanh” do máu của trẻ sơ sinh không thể đủ để mang oxy từ phổi đến khắp cơ thể. Người lớn cũng có thể bị ảnh hưởng bởi nitrat và nitrit trong nước do sự hình thành của chất hóa học được gọi là nitrosamine trong đường tiêu hóa. EPA đã thiết lập một giới hạn tối đa cho Nitrat trong nước là 10 mg/L.
Florua
Florua tồn tại trong nhiều nguồn nước tự nhiên. Ở một số nước florua được thêm vào nước uống như là một yếu tố để bảo vệ răng và xương. Florua trong nước với số lượng rất nhỏ, khoảng 1 -> 1,5 mg/L mang lại lợi ích cho sức khỏe, nhưng vượt quá con số này lại là yếu tố ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Nhiều nhà sản xuất kem đánh răng thêm florua để bảo vệ răng chống lại sâu răng. EPA đã thiết lập một giới hạn tối đa của florua trong nước là 4 mg/L. Các florua dư thừa trong nước có thể có tác dụng có hại khác nhau, làm đổi màu hoặc tổn thương răng và xương.
Để đối phó với các vấn đề trên, các thiết bị lọc sử dụng than hoạt tính và màng thẩm thấu ngươc RO là một giải pháp ưu thế và có hiệu quả cao nhất hiện nay.